Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài

Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài
Rate this post

Có phải bạn đang tìm Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài? Bài viết sau đây mình sẽ giới thiệu đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích mà các bạn không nên bỏ qua. Mình đã tiến hành triển khai như là khái niệm đặc điểm ý nghĩa của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài,quy định pháp luật việt nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài… Hy vọng nguồn tài liệu này sẽ triển khai đến cho các bạn nhiều thông tin hữu ích để bạn có thể tiến hành làm hoàn thành bài luận văn của mình.

Ngoài ra, hiện nay bên mình có nhận viết thuê luận văn với đa dạng các đề tài phổ biến nhất hiện nay, cho nên nếu như bạn đang có nhu cầu cần viết một bài luận văn hoàn chỉnh thì ngay bây giờ đây hãy tìm đến dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ của chúng tôi qua zalo/telegram : 0932.091.562 để được tư vấn báo giá làm bài trọn gói và hỗ trợ nhanh nhất có thể nhé.

1. Khái Niệm, Đặc Điểm, Ý Nghĩa Của Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài

1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài

            Theo Từ điển của Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, tranh chấp được hiểu là những xung đột, bất đồng về quyền, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật [29, tr.132.]. Tranh chấp thương mại được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau với tên gọi: tranh chấp về kinh doanh, thương mại; tranh chấp kinh tế; tranh chấp thương mại. Luật thương mại năm 2005 định nghĩa: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” [khoản 1, điều 3, 3]. Tuy không đưa ra khái niệm về tranh chấp kinh doanh thương mại nhưng luật này lại đưa ra các hình thức giải quyết tranh chấp đó là: “Thương lượng giữa các bên; Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải; Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án” [điều 317, 3]. Như vậy có thể thấy trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp được quy định trong Luật thương mại và cũng là hình thức phổ biến của các nước trên thế giới hiện nay.

XEM THÊM : Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

          Trọng tài thương mại có hai nghĩa. Đối với nghĩa thứ nhất, trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp ngoài thủ tục tư pháp do các bên có tranh chấp lựa chọn để giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Trọng tài viên [26, tr.226]. Nghĩa thứ hai, trọng tài thương mại là một tổ chức phi Chính phủ hoạt động với tư cách là một tổ chức nghề nghiệp do các Trọng tài viên lập ra để giải quyết các tranh chấp thương mại [26, tr.226].

          Ở Việt Nam khái niệm trọng tài kinh tế ra đời với sự xuất hiện của hợp đồng kinh tế trong Nghị định số 04/TTg ngày 04 tháng 01 năm 1960 của Thủ tướng Chính phủ quy định: “điều lệ tạm thời chế độ hợp đồng kinh tế”; Nghị định số 20/TTg ngày 14 tháng 01 năm 1960 về “tổ chức trọng tài kinh tế”, trong tài kinh tế trong giai đoạn này chính là cơ quan Nhà nước.

          Trải qua quá trình hoàn thiện đến nay khái niệm trọng tài thương mại được quy định tại Luật trọng tài thương mại năm 2010 là: “phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại” [khoản 1, điều 3, 4]. Như vậy căn cứ theo quy định tại luật thì có thể hiểu đây là một phương thức giải quyết tranh chấp do các bên tranh chấp lựa chọn, quá trình giải quyết tranh chấp phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục.

          Như vậy có thể khẳng định rằng: “Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp, mà ở đó các bên thỏa thuận đưa ra tranh chấp trước một bên thứ ba độc lập xem xét và quyết định vụ việc. Phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm, bắt buộc thi hành và được cưỡng chế bởi cơ quan thi hành án Nhà nước”.

1.2. Đặc điểm giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài

                Xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt của các bên việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp nói riêng cũng như mọi vấn đề liên quan đến quá trình giải quyết tranh chấp tuân thủ theo nguyên tắc này. Quyền tự định đoạt của các bên được coi là một nội dung của quyền tự do kinh doanh và được pháp luật bảo hộ. Pháp luật hiện hành của Việt Nam, trong các văn bản pháp luật quốc gia cũng như trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đều đã ghi nhận nguyên tắc này. Theo thông lệ quốc tế và quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bao gồm: Thương lượng; Hòa giải; Trọng tài thương mại và Tòa án. Như vậy giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài có những đặc điểm sau:

          Một là, trọng tài thương mại chỉ có thẩm quyền giải quyết một tranh chấp thương mại cụ thể nào đó khi các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết [20, tr.78]. Luật thương mại quy định: tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên xảy ra tranh chấp có thỏa thuận trọng tài [15, tr.10], thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước và sau khi xảy ra tranh chấp [15, tr.10] và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp vô hiệu tức là đã có hiệu lực pháp luật [15, tr.22]. Như vậy, khi các bên đã thỏa thuận lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là trọng tài theo quy định của pháp luật thì việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chính là yêu cầu bắt buộc. Như vậy, Tòa án sẽ không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó nữa trừ những trường hợp quy định tại khoản 3 điều 2 Nghị quyết số 01/2014/NQ – HĐTP đó là: “Có quyết định của Tòa án huỷ phán quyết trọng tài, hủy quyết định của Hội đồng trọng tài về việc công nhận sự thỏa thuận của các bên; Có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, Trung tâm trọng tài quy định tại khoản 1 Điều 43 các điểm a, b, d và đ khoản 1 Điều 59 Luật trọng tài thương mại; Tranh chấp thuộc trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 4 Nghị quyết 01/2014/NQ – HĐTP”. Thỏa thuận trọng tài được xác lập đưới hai hình thức: điều khoản trọng tài hoặc thỏa thuận riêng, trong hợp đồng có điều khoản trọng tài được xác định hoặc phụ lục không tách khỏi hợp đồng. Trường hợp thỏa thuận riêng có thể được xác lập tại thời điểm xảy ra tranh chấp phát sinh mà hợp đồng không quy định tại điều khoản trọng tài.

XEM THÊM :99+ Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Luật Thương Mại

          Hai là, trọng tài được xem là phương thức giải quyết với sự tham gia của bên thứ ba mang tính khách quan để giải quyết bất đồng. Tuy nhiên, khác với việc bên thứ ba làm trung gian hòa giải – người không có quyền đưa ra quyết định giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc các bên, quyết định trọng tài (trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài) là chung thẩm và có tính ràng buộc pháp lý đối với các bên tranh chấp tương tự như Tòa án [10, tr.78].

          Tòa án là cơ quan xét xử nhân danh quyền lực tư pháp của Nhà nước còn Trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp trên cơ sở ý chí của các bên đương sự, quá trình giải quyết tranh chấp thương mại phải thật sự là người thứ ba độc lập, vô tư, không liên quan gì đến các bên tranh chấp cũng như không liên quan gì đến các vụ tranh chấp đó. Theo quy tắc tố tụng của trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam người được chọn làm Trọng tài viên khoomg được làm trọng tài viên trong các trường hợp sau: “là người thân thích hoặc đại diện của một bên; có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp; đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất kỳ bên nào trong chính vụ tranh chấp đang được đưa ra phán quyết tại trung tâm, trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận bằng văn bản; căn cứ rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không vô tư, độc lập hoặc không khách quan; không đáp ứng được những tiêu chuẩn cụ thể mà các bên thỏa thuận; không đáp ứng tiêu chuẩn theo pháp luật trọng tài đã được áp dụng” [khoản 3, điều 16, 6].

          Khi được lựa chọn hoặc chỉ định giải quyết tranh chấp và trong quá trình giải quyết tranh chấp, Trọng tài viên phải thông báo công khai kịp thời những vấn đề có thể gây nghi ngờ về tính khách quan vô tư của mình. Khi giải quyết tranh chấp thương mại trọng tài viên phải căn cứ vào những tình tiết của vụ án, xác minh sự việc nếu thấy cần thiết và phải căn cứ vào các chứng cứ mà mình thu thập được. Trọng tài viên sẽ không bị chi phối bởi bất kỳ tổ chức cá nhân nào.

          Thứ ba, trọng tài là một phương thức giải quyết phi Nhà nước nên trọng tài không mang tính quyền lực như Tòa án. Khác với các phương thức giải quyết thương lượng, hòa giải

          Trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại các trọng tài viên thực hiện theo trình tự trên cơ sở quy định của luật pháp và có quyền ra quyết định cuối cùng mang tính ràng buộc đối với các bên tranh chấp và các bên phải thực hiện nghĩa vụ này. Phán quyết trọng tài mang tính chung thẩm và có hiệu lực ban hành [18, tr.5] việc quy định như vậy cho phép khẳng định pháp luật Việt Nam về trọng tài không chấp nhận việc kháng cáo dù một phần hoặc toàn bộ với phán quyết của trọng tài.

          Tuy nhiên, trong trường hợp một trong các bên tranh chấp yêu cẩu Tòa án hủy phán quyết và yêu cầu này được Toà án chấp nhận thì phán quyết trọng tài sẽ hết hiệu lực thi hành. Điều 68 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định căn cứ hủy phán quyết trọng tài và và điều 69 quy định về quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Hiện nay nhiều quốc gia đã ban hành nhưng quy định riêng về tổ chức và hoạt động của trọng tài. Uỷ ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (viết tắt là UNCITRAL – United Nations Commission On International Trade Law) đã ban hành Luật mẫu về trọng tài thương mại được nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam vận dụng để ban hành pháp luật về trọng tài của nước mình.

1.3. Ý nghĩa giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài

          Trong tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài hiện nay phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đáp ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp kinh doanh cho các chủ thể tham gia thương mại. Ở Việt Nam, sự xuất hiện của phương thức này có nghĩa quan trong với đời sống kinh tế – xã hội như sau:

          Một là, khi có sự phát sinh tranh chấp giữa các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh thương mại, phương thức trọng tài do sự tự do thỏa thuận và thống nhất của các bên nhằm tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh thương mại, quyền nay được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá trình tố tụng trọng tài.

          Hai là, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài sẽ giảm bớt áp lực cho hoạt động xét xử của Tòa án, tạo mối quan hệ hài hòa về giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội.

XEM THÊM : Top 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hiến Pháp

          Ba là, trọng tài giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại luôn mang lại những lợi ích thiết thực cho các nhà kinh doanh, tạo cơ hội cho các bên có thể lựa chọn và chỉ định trọng tài viên mà họ tín nhiệm, điều này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp. ranh chấp được giải quyết bởi các trọng tài viên là chuyên gia trong lĩnh vực liên quan đến vụ việc do chính các bên lựa chọn. Việc lựa chọn này rất có lợi cho các bên trong tranh chấp vì trọng tài viên được lựa chọn là các chuyên gia có chuyên môn, có nhiều kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: thuế, xuất nhập khẩu hàng hóa, ngân hàng, sở hữu trí tuệ, chứng khoán, kiểm toán, kiểm định… phù hợp để bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong các loại tranh chấp có tính chất đặc thù, phức tạp. Khi các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề đang tranh chấp, thì họ có thể đưa ra các phán quyết giải quyết tranh chấp nhanh chóng, chính xác và công bằng.

          Bốn là, giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài sẽ tiết kiệm được thời gian và không bị ràng buộc bởi  nguyên tắc lãnh thổ. Các bên tranh chấp được chủ động lựa chọn thời gian, địa điểm cũng như có quyền lựa chọn mô hình trọng tài, lựa chọn trọng tài viên để giải quyết vụ tranh chấp. Thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, không trải qua nhiều cấp xét xử như ở toà án, hơn nữa các bên có thể thỏa thuận về thủ tục giải quyết tranh chấp (miễn là các bên được đối xử công bằng, thủ tục giải quyết trọng tài có thể được xây dựng phù hợp với những yêu cầu cụ thể của tranh chấp, hơn là phù hợp với những quy tắc cố định của luật tố tụng) giúp cho quá trình giải quyết tranh chấp nhanh gọn hơn hạn chế tốn kém về thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, cũng như cho họ hi vọng về một phán quyết thỏa đáng.

          Năm là, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài đảm bảo tính bí mật của các bên. Sự riêng tư của thủ tục trọng tài và tính bảo mật bao trùm toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài là một điểm hấp dẫn đối với các doanh nghiệp và các tổ chức có thể bị liên quan (thường là trái với ý chí của họ) trong các quy trình pháp lý. Ví dụ: Có thể có những bí mật kinh doanh hoặc kế hoạch cạnh tranh cần được bảo vệ, hoặc có thể chỉ là các bên không muốn chi tiết của vụ tranh chấp thương mại (hoặc việc đưa ra những quyết định sai lầm) trở thành đề tài bàn tán trong dư luận. Nguyên tắc trọng tài xét xử không công khai, phần nào giúp các bên giữ được uy tín trên thương trường. Các bên tranh chấp có khả năng tác động đến quá trình trọng tài, kiểm soát được việc cung cấp chứng cứ của mình và điều này giúp các bên giữ được bí quyết kinh doanh. Đây được coi là ưu điểm được các bên tranh chấp ưa chuộng nhất.

          Sáu là, thông qua việc áp dụng phương thức này trong thực tiễn kinh doanh sẽ chỉ ra được những bất cập trong việc áp dụng quy định của pháp luật và tạo định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh thương mại ngày càng phát triền [20, tr.14].

Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài
Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài

2. Quy Định Pháp Luật Việt Nam Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài

2.1. Điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

          Giống như phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án để tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại phải đáp ứng điều kiện quy định tại điều 5 Luật trọng tài thương mại năm 2010 như sau:

          Thứ nhất, phải có thỏa thuận trọng tài. Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp” [khoản 1, điều 5, 4].

          Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài thỏa thuận trọng tài được quy định tại điều 16 Luật trọng tài thương mại năm 2010 “có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng” [4]. Do đó, khi tranh chấp thương mại xảy ra và các bên muốn đưa ra giải quyết thông qua phương thức trọng tài thương mại thì có thể lập thỏa thuận trọng tài theo quy định của pháp luật và đáp ứng đầy đủ điều kiện có hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài. Không nhất thiết phải có thỏa thuận trước trong hợp đồng thì chủ thể mới có thể giải quyết tranh chấp.

          Về hình thức thỏa thuận trọng tài, “Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản: Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận” [khoản 2, điều 16, 4].

          Ngoài ra tại điều 7 Nghị quyết 01/2014/NQ – HĐTP ngày 17 tháng 06 năm 2010: “Trường hợp có nhiều thỏa thuận trọng tài được xác lập đối với cùng một nội dung tranh chấp thì thỏa thuận trọng tài được xác lập hợp pháp sau cùng theo thời gian có giá trị áp dụng. Trường hợp thỏa thuận trọng tài có nội dung không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự để giải thích. Khi có sự chuyển giao quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, hợp đồng mà trong giao dịch, hợp đồng đó các bên có xác lập thỏa thuận trọng tài hợp pháp thì thỏa thuận trọng tài trong giao dịch, hợp đồng vẫn có hiệu lực đối với bên được chuyển giao và bên nhận chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Việc gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp để giải quyết trong cùng một vụ kiện được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Các bên thỏa thuận đồng ý gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp vào giải quyết trong cùng một vụ kiện; Quy tắc tố tụng trọng tài cho phép gộp nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp vào giải quyết trong cùng một vụ kiện” [6].

          Thỏa thuận trọng tài vẫn có thể bị vô hiệu trong một số trường hợp:

          – Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, đó là trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải quyết tranh chấp không thuộc các trường hợp: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại;  Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài [26, 223].

          – Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, tức là người xác lập thỏa thuận trọng tài khi không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền [26, 224].

        Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài về nguyên tắc thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu [26, 224].

          – Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự, tức là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự [26, tr.224].

          Trong trường hợp này thì Tòa án cần thu thập chứng cứ để chứng minh người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Tòa án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

          Thứ hai, theo quy định tại khoản 2 điều 5 Luật trọng tài thương mại năm 2010: trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

          Thứ ba, theo quy định tại khoản 3 điều 5 Luật trọng tài thương mại năm 2010: trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác

2.2. Thủ tục tố tụng trọng tài

          Bước 1: Đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo

          Thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính như sau: Trường hợp 1, tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài, nếu các bên không có thỏa thuận khác, thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi Trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn. Trường hợp 2, tranh chấp được giải quyết bằng trọng tại vụ việc, nếu các bên không có thỏa thuận khác, thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn [điều 31, 4]

         Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài đơn khởi kiện gồm những nội dung sau đây: “Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện; Tên, địa chỉ của các bên; tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có; Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp; Cơ sở và chứng cứ khởi kiện, nếu có; Các yêu cầu cụ thể của nguyên đơn và giá trị vụ tranh chấp; Tên, địa chỉ người được nguyên đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề nghị chỉ định Trọng tài viên” [khoản 2, điều 30, 4]. Kèm theo đơn khởi kiện, phải có bản thỏa thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu có liên quan [khoản 3, điều 30]. Như vậy, đơn khởi kiện được thể hiện bằng văn bản và chứa đựng những nội dung quy định trong Luật trọng tài thương mại.

          Bước 2: bị đơn nộp bản tự bảo vệ

          Luật trọng tài thương mại năm 2015 quy định nội dung của bản tự bảo vệ bao gồm: “Ngày, tháng, năm làm bản tự bảo vệ; tên và địa chỉ của bị đơn; Cơ sở và chứng cứ tự bảo vệ, nếu có; Tên và địa chỉ của người được bị đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề nghị chỉ định Trọng tài viên” [khoản 1, điều 35, 4].

          Trường hợp đối với những vụ tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài, “nếu các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không có quy định khác, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho Trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ. Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, thời hạn này có thể được Trung tâm trọng tài gia hạn căn cứ vào tình tiết cụ thể của vụ việc” [khoản 2, điều 30, 4].

          Trường hợp những vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, “nếu các bên không có thoả thuận khác, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo, bị đơn phải gửi cho nguyên đơn và Trọng tài viên bản tự bảo vệ, tên và địa chỉ của người mà mình chọn làm Trọng tài viên” [khoản 3, điều 30, 4].

          Trường hợp bị đơn cho rằng “vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, không có thoả thuận trọng tài, thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì phải nêu rõ điều đó trong bản tự bảo vệ”. [khoản 4, điều 30, 4].

          Trường hợp bị đơn không nộp bản tự bảo vệ theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quá trình giải quyết tranh chấp vẫn được tiến hành.

          Bước 3: thành lập hội đồng trọng tài

          Thành phần Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hoặc nhiều Trọng tài viên theo sự thỏa thuận của các bên [khoản 1, điều 39, 4]. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng tài bao gồm ba Trọng tài viên [khoản 2, điều 39, 4].

          Hội đồng trọng tài sẽ có một trọng tài viên duy nhất: nguyên đơn và bị đơn thống nhất chọn Trọng tài viên duy nhất hoặc yêu cầu Chủ tịch Trung tâm chỉ định Trọng tài viên duy nhất trong trường hợp các bên không thống nhất được Trọng tài viên duy nhất trong thời hạn quy định.

          Bước 4: Hội đồng trọng tài nghiên cứu hồ sơ, thực hiện một số công việc theo thẩm quyền. Sau khi được thành lập tranh chấp thương mại sẽ chính thức được giải quyết. Qúa trình này sẽ bao gồm các công việc: nghiên cứu hồ sơ, xác định sự việc, thu thập chứng cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.

          Thứ nhất: nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc

          Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài trên cơ sở đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ của nguyên đơn, bản tự bảo vệ và các tài liệu, chứng cứ của bị đơn, các Trọng tài viên phải nghiên cứu kĩ hồ sơ và các văn bản pháp luật có liên quan đến vụ kiện để tìm ra hướng giải quyết tốt nhất; Hội đồng Trọng tài có quyền gặp các bên để nghe các bên trình bày ý kiến. Hội đồng Trọng tài cũng có thể tìm hiểu sự việc từ người thứ ba với sự có mặt của các bên hoặc sau khi đã thông báo cho các bên.

          Thứ hai: thu thập chứng cứ

          Sau khi đọc hồ sơ, nếu thấy các bên chưa đủ chứng cứ thì Hội đồng Trọng tài có quyền yêu cầu các bên cung cấp chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp. Các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc sự việc mà mình nêu ra. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng Trọng tàu có thể tự mình thu thập chứng cứ, mời giám định theo yêu cầu của một bên hoặc các bên và phải thông báo cho các bên biết.

          Bước 5: thương lượng, hòa giải trong tố tụng trọng tài. Trong quá trình tố tung, các bên có quyền tự do thương lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp (thông qua văn bản thỏa thuận hoặc Biên bản của cuộc họp thỏa thuận) hoặc yêu cầu Hội đồng trọng tài hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp (Biên bản hòa giải thành và Quyết định công nhân của Hội đồng trọng tài) [Điều 58, 4].

          Bước 6: tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp

          Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Các bên có thể trực tiếp ủy quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp; có quyền mời người làm chứng, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình. Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng trọng tài có thể cho phép những người tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp. Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp do quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quy định. Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành công khai trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

          Bước 7: phán quyết trọng tài

          Phán quyết trọng tài được thực hiện theo nguyên tắc: “Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo nguyên tắc đa số. Trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được lập theo ý kiến Chủ tịch Hội đồng trọng tài” [điều 60, 4]. Nội dung, hình thức và hiệu lực của phán quyết trọng tài được quy định tại điều 61 Luật trọng tài thương mại năm 2010. Khi thi hành phán quyết trọng tài dựa trên tinh thần tự nguyện thi hành và khi hết thời hạn tự nguyện thi hành cũng có yêu cầu hủy phán quyết thì bên được thi hành án quyết trọng tài có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.

2.3. Vai trò của cơ quan Nhà nước trong việc hỗ trợ giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài

2.3.1. Vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài

          Đối với những tranh chấp thương mại được giải quyết thông qua con đường trọng tài Tòa án sẽ đóng vai trò như sau:

          Một là, tòa án xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài [Điều 43, 4]

         Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Trường hợp các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trung tâm trọng tài khác; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết”. [khoản 3, điều 43, 4]

          Trường hợp “các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết” [khoản 4, điều 43, 4]

          Hai là, tòa án hỗ trợ Hội đồng trọng tài trong việc thu thập chứng cứ

          Nội dung này được quy định tại khoản 5, 6 điều 46 Luật trọng tài thương mại năm 2010 và được hướng dẫn bởi Nghị quyết 01/2014/NQ – HĐTP như sau: “Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ trong trường hợp quy định tại khoản 5, 6 Điều 46 Luật Trọng tài thương mại nếu Hội đồng trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thu thập được (đã áp dụng các biện pháp cần thiết là đã sử dụng mọi cách thức và khả năng cho phép để yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cung cấp cho mình chứng cứ mà vẫn không được cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp). Văn bản đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ phải có đầy đủ nội dung quy định tại khoản 5 Điều 46 Luật TTTM, gửi kèm theo văn bản đề nghị là thỏa thuận trọng tài, đơn khởi kiện, tài liệu khác có liên quan và tài liệu, chứng cứ chứng minh việc đã tiến hành thu thập chứng cứ nhưng vẫn không thể tự mình thu thập được” [khoản 1, điều 11, 6]

          Trình tự thủ tục thập, bảo quản, chuyển giao chứng cứ của Tòa án được thực hiện theo quy định tại Luật trọng tài thương mại: “Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản, đơn yêu cầu thu thập chứng cứ, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết yêu cầu thu thập chứng cứ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải có văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và gửi văn bản đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

          Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.

          Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được chứng cứ do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp, Tòa án phải thông báo cho Hội đồng trọng tài, bên yêu cầu biết để tiến hành việc giao nhận chứng cứ.

          Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài trường hợp quá thời hạn quy định mà cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu thì Tòa án phải thông báo ngay cho Hội đồng trọng tài, bên yêu cầu biết đồng thời có văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật” [khoản 6, điều 46, 6]. Ngoài ra, việc thu thập chứng cứ phải tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

          Thứ ba, Tòa án hỗ trợ Trọng tài trong việc triệu tập người làm chứng

          Tòa án chỉ tiến hành triệu tập người làm chứng khi có căn cứ chứng minh người làm chứng đã được Hội đồng trọng tài triệu tập hợp lệ mà không đến phiên họp nhưng không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp. Văn bản đề nghị triệu tập người làm chứng phải có đầy đủ nội dung quy định tại khoản 2 Điều 47 Luật trọng tài thương mại năm 2010 , gửi kèm theo văn bản đề nghị là thỏa thuận trọng tài, đơn khởi kiện, tài liệu khác có liên quan và tài liệu, chứng cứ chứng minh việc triệu tập hợp lệ mà người làm chứng không đến phiên họp nhưng không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp [khoản 3, điều 11, 6].

          Trình tự, thủ tục ra quyết định, triệu tập, thông báo kết quả triệu tập người làm chứng thực hiện theo quy định tại Luật Trọng tài thương mại năm 2010: “Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị triệu tập người làm chứng của Hội đồng trọng tài, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết yêu cầu triệu tập người làm chứng. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải ra quyết định triệu tập người làm chứng” [khoản 3. Điều 47, 6] và quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

          Cùng với việc nộp các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu, bên yêu cầu thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng phải nộp lệ phí thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng và chi phí thu thập chứng cứ, chi phí cho người làm chứng theo quy định. Trường hợp Hội đồng trọng tài yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng thì lệ phí thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng và chi phí thu thập chứng cứ, chi phí cho người làm chứng do bên yêu cầu thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng nộp thông qua Hội đồng trọng tài [khoản 5, điều 11, 6]

          Thứ tư, sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài trong áp dụng, thay đổi hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác” [khoản 1, điều 48, 6]. Vấn đề này không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc từ chối giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

          Thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án được thực hiện như sau:

          Đầu tiên, một hoặc các bên tranh chấp có quyền làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay sau khi nộp đơn khởi kiện tại Trọng tài (khi thời điểm tố tụng trọng tài đã bắt đầu) mà không phân biệt Hội đồng trọng tài đã được thành lập hay chưa, Hội đồng trọng tài đã giải quyết tranh chấp hay chưa.

          Hai là, một hoặc các bên có quyền đề nghị Tòa án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 49 Luật trọng tài thương mại năm 2010, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

          Ba là, cùng với việc nộp các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu, bên yêu cầu áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp lệ phí yêu cầu và thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định.

          Bốn là, trình tự, thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án thực hiện theo quy định tại các điều 48, 49, 52, 53 Luật trọng tài thương mại năm 2010 và quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

          Thứ năm, tòa án hỗ trợ Trọng tài trong việc chỉ định Trọng tài viên thành lập hội đồng trọng tài vụ việc.

          Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn phải chọn Trọng tài viên và thông báo cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn. Hết thời hạn này, nếu bị đơn không thông báo cho nguyên đơn tên Trọng tài viên mà mình chọn và các bên không có thoả thuận khác về việc chỉ định Trọng tài viên, thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn. Trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn, thì các bị đơn phải thống nhất chọn Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo. Hết thời hạn này, nếu các bị đơn không chọn được Trọng tài viên và nếu các bên không có thoả thuận khác về việc chỉ định Trọng tài viên, thì một hoặc các bên có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn.

          Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được các bên chọn hoặc được Tòa án chỉ định, các Trọng tài viên bầu một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp không bầu được Chủ tịch Hội đồng trọng tài và các bên không có thoả thuận khác thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài.

          Trong trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh chấp do một Trọng tài viên duy nhất giải quyết nhưng không chọn được Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện, nếu các bên không có thoả thuận yêu cầu một Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên duy nhất [6]

2.3.2. Vai trò của cơ quan thi hành án trong việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài

         Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài như chúng ta đã biết, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp lựa chọn. Trọng tài thương mại với tư cách là một tổ chức phi Chính phù, hoạt động với tư cách là một tổ chức nghề nghiệp, do các Trọng tài viên thành lập ra để giải quyết các tranh chấp thương mại. Phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực Nhà nước mà đại diện cho ý chí của các bên tranh chấp. Tuy nhiên, nếu trong quá trình giải quyết gặp nhiều vướng mắc thì các cơ quan tư pháp sẽ đóng vai trò hỗ trợ giải quyết. Các cơ quan quản lý Nhà nước quản lý hoạt động của cá nhân, tổ chức và trong đó có hoạt động trọng tài. Trọng tài thực hiện những hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ pháp luật và tuân thủ sự quản lý của của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như Luật trọng tài năm 2010, văn bản hướng dẫn (Nghị quyết 01/2014/NQ – HĐTP) và các văn bản liên quan đã tạo ra “hành lang pháp lý”  cho trọng tài hoạt động. Khi mà các trung tâm trọng tài xây dựng Điều lệ và quy tắc tố tụng sẽ được các cơ quan quản lý Nhà nước tiến hành phê chuẩn vì vậy điều này cũng thể hiện sự quản lý trực tiếp đối với hoạt động của tổ chức trọng tài.

2.3.3. Vai trò của cơ quan thi hành án đối với hoạt động của Trọng tài thương mại

          Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Nhà nước khuyến khích các bên tự thi hành phán quyết trọng tài” [điều 62, 6]. Trong thực tế, những phán quyết trọng tài sẽ được các bên tự nguyên thi hành nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bên. Phán quyết trọng tài được thi hành theo quy định của Luật thi hành án dân sự [điều 67, 6]. Quy định như vậy mang lại nhiều thuận lợi cho hoạt động trọng tài đó là đơn giản hóa thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại, đơn giản hóa việc thi hành phán quyết trọng tài; nâng cao giá trị pháp lý đối với phán quyết của trọng tài.

          Khoản 1 điều 66 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài”. Và khoản 2 điều 66 Luật trọng tài thương mại năm 2010 cũng quy định: “Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật trọng tài thương mại”. Cơ quan thi hành án đóng vai trò hỗ trợ Nhà nước đối với hoạt động Trọng tài bới đây là cơ quan “phi chính phủ” nên không thể cưỡng chế thi hành phán quyết và đây là sự hỗ trợ vô cùng hiệu quả.   

Bài viết trên đây là Cơ Sở Lý Luận Về Giải Quyết Tranh Chấp Thương Mại Bằng Trọng Tài là nguồn tài liệu mà mình đã liệt kê đến cho các bạn cùng xem và tham khảo để có thêm nhiều kiến thức đa dạng và phổ biến để có thể triển khai tốt bài luận văn của mình. Chưa dừng lại ở đó, hiện nay bên mình có nhận viết thuê luận văn với nhiều đề tài chất lượng, nếu như bạn đang có nhu cầu cần viết một bài luận văn hoàn chỉnh thì hãy tìm đến ngay dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ và nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0932.091.562 để được tư vấn báo giá làm bài trọn gói và hỗ trợ nhanh nhất có thể nhé.

DOWNLOAD MIỄN PHÍ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0932091562