Cơ sở lý luận về giáo dục giới tính

Tự kỷ và hội chứng tự kỷ
Rate this post

Sau đây là mẫu Luận văn thạc sĩ Ngành Quản lý giáo dục về Cơ sở lý luận về giáo dục giới tính. Tài liệu này được Luận văn Panda sưu tầm từ nhiều nguồn luận văn thạc sĩ đạt điểm cao của các công trình học viên khóa trước. Hy vọng với nội dung bài viết Cơ sở lý luận về giáo dục giới tính. Sẽ hỗ trợ cho các bạn học viên đang làm Luận văn thạc sĩ ngành Quản lý giáo dục có thêm nguồn tài liệu tham khảo.

Ngoài ra, để hỗ trợ thêm cho nhiều bạn học viên đang tìm kiếm tài liệu luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản Lý Giáo Dục, và những tài liệu liên quan đến luận văn thạc sĩ ngành Quản Lý Giáo Dục về Cơ sở lý luận về giáo dục giới tính, Luận văn Panda có chia sẻ nhiều tài liệu luận văn ngành Quản Lý Giáo Dục chọn lọc, nhằm hỗ trợ các bạn học viên đang làm luận văn được tốt hơn. Các bạn có thể tham khảo nhiều bài luận văn tại đây.

===>>> KHO 999 + Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Giáo Dục

1. Sơ lược lịch sử giáo dục giới tính trên thế giới

Vấn đề giới tính và giáo dục giới tính đã được xem xét từ lâu. Vào thời kỳ tiền khoa học người ta xem xét giới tính và giáo dục giới tính theo quan điểm tôn giáo và đạo đức thời đó. Vào thời kỳ này, việc giáo dục giới tính cho trẻ em ít nhiều được chính thức hóa, người ta đã chú ý dạy dỗ cho các em gái theo mô hình giống bà và mẹ, còn dạy dỗ các em trai theo mô hình của ông và bố.Ở các nước phương Đông như Trung Quốc và Nhật Bản, người ta dạy trẻ em gái phải phục tùng bố mẹ trong hôn nhân theo kiểu “áo mặc sao qua khỏi đầu”, phải giữ gìn trinh tiết, quan hệ nam nữ tuân thủ nghiêm nghặt theo lời dạy “ nam nữ thụ thụ bất thân”… Ở các nước phương Tây, người lớn hoàn toàn không nói đến cuộc sống tình dục với trẻ em thế kỷ XIX, tình yêu xác thịt và tình dục bị cấm kỵ một cách gay gắt. Đến đầu thế kỷ XX, nhu cầu giáo dục giới tính bắt đầu được chú ý và đề cao. Việc nghiên cứu giới tính lúc này bắt đầu được nghiên cứu một cách nghiêm túc và khoa học. Có thể kể đến “một số nhà khoa học như J. Bachocen (Thụy Sĩ), J.Mac Lenan (Anh), E. Wetermach (Phần Lan), Lewis Henry Morgan (Mỹ), X.M. Kovalevxki (Nga) …không những đã gắn sự phát triển quan hệ tính dục với các dạng hôn nhân và gia đình, mà còn gắn cả với những yếu tố khác của chế độ xã hội và văn hóa” [26, 9]. Ngoài ra còn có thể kể đến một số công trình nổi tiếng như: “Những rối loạn tình dục” được coi là cuốn sách nghiên cứu về giới tính đầu tiên của nhà tâm lý học người Áo Krapht Ebing, xuất bản năm 1886; ba bài thảo luận về “lý thuyết tính dục” của nhà tâm lý học người Áo gốc Tiệp Sigmund Freud, xuất bản 1905, “ Ứng xử tình dục của đàn ông” của Kingsey xuất bản 1948…

Năm 1921, tại Mỹ một Ủy ban liên ngành được thành lập để nghiên cứu các vấn đề tính dục. Ủy ban này đã hỗ trợ cho H.Kingsey cùng các cộng sự của ông nghiên cứu một cách khá toàn diện và khoa học trên quy mô rộng về các định hướng tâm lý tính dục và hành vi của con người. “Bản phúc trình của Kingsey” đã được biên soạn dựa trên những tài liệu phong phú của trên 10 ngàn cuộc điều tra khoa học khác nhau, đã được nhiều người biết đến.

Nối tiếp công trình của H. Kingsey là công trình của W.Masters và V.Johnson, vào năm 1954. Các tác giả này đã tập trung vào việc phát hiện các chuẩn mực trong tính dục. Công trình này đã được công bố năm 1966 (sau 11 năm nghiên cứu), đã cung cấp những tham số sinh lý đáng tin cậy về đời sống tính dục của con người.

Nga, những công trình nghiên cứu từ năm 1903 đến 1904 của D.N. Zabanov và V.I. Iakovenko mang tên “ Cuộc điều tra tính dục” đã được tiến hành trong sự cấm đoán của Nga hoàng.

Trên 6000 bản điều tra được phát ra, nhưng đa số bị cảnh sát tịch thu, chỉ còn 324 bản và công trình nghiên cứu được công bố năm 1922.

Ngay từ những năm 1920 của thế kỷ XX, V.I. Lênin đã nói: “Cùng với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề quan hệ giới tính, vấn đề hôn nhân gia đình cũng được coi là cấp bách.”[26,11]. A.X.Makarenko viết: “ Đạo đức xã hội đặt ra những vấn đề về giáo dục giới tính cho thanh thiếu niên. Sinh hoạt giới tính của con người liên quan mật thiết với việc giáo dục về tình yêu, về đời sống gia đình tức là mối quan hệ giữa nam và nữ, mối quan hệ dẫn tới mục đích hạnh phúc của con người, không thể quên giáo dục loại tình cảm đặc biệt đó về giới tính.”[26,12]. Các nhà khoa học cũng đã đưa ra nhiều ý kiến rất cụ thể về nội dung, phương pháp giáo dục giới tính. I.X.Kon khẳng định: “Chuẩn bị cho nam nữ thanh niên bước vào cuộc sống gia đình đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống giáo dục đạo đức và giáo dục giới tính”[15,19], A.X.Makarenko cho rằng, thanh niên cần phải “ học tập cách yêu đương, phải học tập để hiểu biết tình yêu, phải học tập cách sống hạnh phúc, và như thế có nghĩa là học tập để biết tự trọng, học tập để biết cái vinh hạnh được làm người” [26,12].

Từ năm 1968, hầu hết các địa phương của Liên Xô bắt đầu chú ý tổ chức việc hướng dẫn và tổ chức giáo dục điều trị, hướng dẫn các vấn đề về giới tính, nhất là đời sống tình dục và quan hệ hôn nhân. Việc nghiên cứu và điều trị những bệnh về tính dục đã được tiến hành. Tầm quan trọng của việc “ cần phải phát triển và hoàn thiện nội dung, phương pháp giáo dục giới tính phù hợp với đạo lý” đã được thừa nhận tại kỳ họp liên tịch giữa Viện hàn lâm khoa học y học và Viện hàn lâm khoa học giáo dục Liên Xô 1971, và tại cuộc “ Hội thảo quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa về kế hoạch hóa gia đình, giáo dục giới tính, về vợ chồng và gia đình tại Varsava” năm 1977.Mục đích của việc nghiên cứu về giới tính là nhằm tìm hiểu và cung cấp một cách khoa học các kiến thức vững chắc về khoa học giới tính và giáo dục giới tính, từ đó giáo dục cho thế hệ trẻ quan niệm tiến bộ và có trách nhiệm về tình yêu như Sukhomlinxki đã nêu: “Yêu là thời kỳ khởi đầu của việc làm cha làm mẹ. Yêu có nghĩa là cảm thấy một trách nhiệm lớn lao đối với người khác, với người mình yêu và với người mình sẽ tạo ra”[26,12]

Theo đó, công tác giáo dục giới tính bắt đầu được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Cụ thể có thế biết đến một số nước sau:

  • Đức: Vấn đề giáo dục giới tính được tiến hành rộng rãi từ những năm 1960. Từ năm 1974, một chương trình giáo dục giới tính đã được xây dựng rất tỉ mỉ cụ thể, dạy cho học sinh phổ thông từ lớp 8, với 15 chủ đề khác nhau và trên 20 sách tham khảo được qui định .
  • Mỹ: ngay từ cấp 1, giáo dục giới tính với học sinh Mỹ đã quen thuộc như một môn học chính thức . Những bài học đầu tiên là về cấu tạo, chức năng các “ cơ quan giới tính” của cả học sinh nam và học sinh nữ, tiếp đến là những biến đổi của cơ thể khi lớn lên khi bước vào tuổi dậy thì. Các hiện tượng đặc thù về giới tính của từng giai đọan phát triển tâm sinh lý cơ thể …đều được lý giải một cách tường tận từ nguyên nhân đến những trục trặc có thể xảy ra. Lớp 6, lớp 7 học sinh đã hiểu thế nào là “ tình dục an tòan” và các biện pháp tránh thai hiệu quả. Học sinh hiểu khá rõ về cơ thể mình và những biến đổi ngay cả khi nó chưa đến.
  • Anh: Theo một đạo luật mới được ban hành ở Anh Quốc, giáo dục giới tính sẽ trở thành môn học bắt buộc trong giáo trình giảng dạy của tất cả các trường học trên tòan nước Anh. Hiện tại, chỉ có học sinh 11 tuổi trở lên mới phải trau dồi môn học mới mẻ này. Thế nhưng từ năm 2021 trở đi, ngay cả các em 5 tuổi cũng sẽ được giảng dạy những điều căn bản về khoa giải phẫu cũng như quan hệ nam nữ. Sở dĩ việc giáo dục giới tính được đưa vào giảng dạy sớm như vậy ở Anh là vì so với tất cả các nước châu Âu, quốc gia này hiện phá kỷ lục về số thiếu nữ vị thành niên mang thai.
  • Trung Quốc: Hình thức giáo dục giới tính tại Trung Quốc là một bài học dài 45 phút, xen kẽ vào môn vệ sinh thường thức trong năm thứ hai của cấp 2. Nhiều thầy giáo không biết giảng dạy bài học này thế nào cho tốt nhất mà không bị phê là “ vẽ đường cho hươu chạy”. Bản thân một số giáo viên cũng dị ứng với đề tài nhạy cảm này.
  • Nhật Bản: chính sách giáo dục giới tính truyền thống của Nhật Bản được gọi là “giáo dục thuần khiết”. Năm 1947, Bộ Giáo Dục Nhật Bản ra văn bản “ Về việc thực thi giáo dục thuần khiết”.Năm 1949, cho ra tiếp “ Những điều cơ bản về giáo dục thuần khiết”. Năm 1955, “Đề án thí điểm thực thi giáo dục thuần khiết” ra đời. Đáng lưu ý rằng trong 3 lần liên tiếp, từ “giáo dục thuần khiết” được sử dụng lặp lại. Trong khi đó, từ “giáo dục giới tính” được sử dụng khá thận trọng. Nói chung, tuy từ “giáo dục giới tính” chỉ bắt đầu được sử dụng rộng rãi từ năm 1966, trong văn bản mới nhất liên quan đến giáo dục giới tính lưu hành từ năm 1986 với tiêu đề “Về vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh” của Bộ Giáo Dục Nhật Bản, từ “ giáo dục giới tính” vẫn được coi là có ý nghĩa tiêu cực. Giáo dục kinh nguyệt (nếu kinh nguyệt dài hơn một thời kỳ nhất định có thể có thai) được phổ cập rộng rãi. Giáo dục này được phổ biến cho học sinh tiểu học lớp 6 (tương đương lớp 6 ở Việt Nam) và thậm chí tiến hành đối với học sinh nhỏ tuổi hơn. Học sinh nữ được đưa vào phòng kín, tắt điện và chiếu video. Tuy nhiên đây là giáo dục giới tính đầu tiên và cũng là giáo dục giới tính cuối cùng! Đối với học sinh nam cũng có giáo dục giới tính tương tự. Gần đây, việc giáo dục giới tính cho học sinh nam và học sinh nữ được tiến hành chung. Cả học sinh nam và học sinh nữ được đưa vào phòng tối, chiếu video hay slide hướng dẫn cách dùng các dụng cụ tránh thai. Giáo dục giới tính ớ Nhật biến chuyển từ nửa đầu của những năm 1980. Do sự ảnh hưởng của AIDS, trường hợp đầu tiên được xác định dương tính là năm 1985. Từ đó đến nay, nhà nước và các tổ chức phi chính phủ khác đã phát hành nhiều tờ rơi liên quan đến AIDS. Trong số đó, khá nhiều tờ rơi nhằm tới đối tượng trung học cơ sở. Bao cao su được khuyến khích sử dụng vừa với mục đích tránh thai, giáo dục giới tính cũng nhấn mạnh rằng nó là công cụ phòng chống AIDS.

Như vậy các vấn đề giới tính và giáo dục giới tính ngày càng có nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Tuy cách thức tiến hành có khác nhau song đều hướng đến mục tiêu chung là kết hợp giáo dục những hiểu biết về giới tính, tình yêu, tình dục với giáo dục ý thức trách nhiệm đối với tình yêu, giáo dục đạo đức, xây dựng gia đình tốt đẹp, lành mạnh, phòng các loại bệnh liên quan đến giới tính như A.X. Makarenko đã nói: “Chúng ta phải giáo dục con em chúng ta làm sao cho các em có thái độ đối với tình yêu như đối với một tình cảm nghiêm túc và sâu nặng, để các em sẽ được hưởng khoái cảm của mình, tình yêu của mình, hạnh phúc của mình trong khuôn khổ gia đình”. Đó chính là nền tảng của đạo đức xã hội và sự bền vững của xã hội trong tương lai.

2. Sơ lược lịch sử nghiên cứu giáo dục giới tính ở Việt Nam

Việt Nam, những năm đầu của thập kỉ 1980, vấn đề giáo dục giới tính cho lứa tuổi vị thành niên vẫn còn bị ảnh hưởng bởi phong tục tập quán lâu đời và bị coi là điều “cấm kị”. Rất nhiều người cảm thấy “ xấu hổ” khó khăn khi nói về tình dục, giới tính. Các thầy cô giáo, tổ chức Đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội gần như chưa được trang bị kiến thức đầy đủ để có thể tham gia giáo dục hay tư vấn về các vấn đề giới tính cho học sinh, thậm chí lại có quan điểm là không nên nhồi nhét vào đầu óc trẻ thơ những điều không tốt. Chính những quan niệm bảo thủ trên đã làm cho trẻ kém hiểu biết về giới tính, phải đối mặt với những nguy cơ, rủi ro trong quan hệ tình dục không an toàn, về sự mang thai ngoài ý muốn.

Từ năm 1984, khi chỉ thị 176A ngày 24 tháng 12 năm 1984 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nêu rõ: “Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức liên quan xây dựng chương trình chính khóa và ngoại khóa nhằm bồi dưỡng cho học sinh những kiến thức khoa học về giới tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái ” thì công tác giáo dục giới tính cho học sinh sinh viên được quan tâm hơn, tập trung cho đối tượng sinh viên các trường Đại học.Từ năm 1985, những công trình nghiên cứu của các tác giả về giới tính, về tình yêu, hôn nhân gia đình đã bắt đầu được công bố. Các tác giả Đặng Xuân Hoài, Trần Trọng Thủy, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Thị Đoan, Nguyễn Thị Tho, Bùi Ngọc Oánh, Lê Nguyên, Phạm Ngọc, Minh Đức… đã nghiên cứu nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh chi tiết của giới tính và giáo dục giới tính. Nhiều công trình nghiên cứu về giới tính, tình yêu, hôn nhân gia đình, nhiều cuộc điều tra về tình yêu và đời sống hôn nhân gia đình đã được tiến hành từ năm 1985 đến nay, bước đầu làm cơ sở cho việc giáo dục giới tính cho thanh niên và học sinh. Những công trình này đã nêu lên nhiều vấn đề rất phong phú đa dạng về vấn đề giới tính và giáo dục giới tính ở Việt Nam.[26,15].

Đến năm 1988, các dự án thử nghiệm VIE/ 88/P10 (giáo dục dân số ở các trường phổ thông và sư phạm) VIE/88/P09 (giáo dục đời sống gia đình và giáo dục giới tính), rồi đến VIE/94/P01 nâng cao và hoàn chỉnh chương trình nói trên. Các chương trình thử nghiệm về giáo dục đời sống gia đình và giáo dục giới tính đã được đại đa số học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh chấp nhận.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giáo sư Trần Trọng Thủy và Giáo sư Đặng Xuân Hoài, đề án đã được tiến hành rất thận trọng và khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề như: quan niệm về tình bạn, tình yêu, hôn nhân, nhận thức về giới tính và giáo dục giới tính của giáo viên, học sinh, phụ huynh… ở nhiều nơi trong cả nước, để chuẩn bị tiến hành giáo dục giới tính cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12.

Từ khoảng năm 1990, ở Việt Nam đã có nhiều dự án Quốc gia, nhiều đề tài liên kết với các nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới tính và những vấn đề có liên quan như: Giáo dục sức khỏe sinh sản; giáo dục về tình yêu trong thanh niên, học sinh; giáo dục đời sống gia đình;giáo dục giới tính cho học sinh…Việc nghiên cứu giới tính và giáo dục giới tính đã được sự quan tâm nhiều của Nhà nước, Bộ Giáo Dục và Đào tạo, Bộ Y tế, các nhà khoa học và các bậc phụ huynh. Để hoạt động giáo dục giới tính đạt được kết quả, PGS. TS Bùi Ngọc Oánh cho rằng: “Việc giáo dục giới tính cần phải được thực hiện một cách khoa học hợp lý, có phương pháp và hình thức giảng dạy thích hợp. Hoạt động giáo dục này cũng phải được tiến hành bởi những người có chuyên môn, có trình độ, được đào tạo một cách chu đáo và hệ thống, giống như việc giáo dục, giảng dạy những bộ môn khoa học khác trong nhà trường [26,159].

Gần đây, ngày 4 tháng 8 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị Số 23/2008/ CT-TTg “Về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình”. Trong đó xác định nhiệm vụ của Bộ Giáo dục và Đào tạo là triển khai có hiệu quả hoạt động giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản, giới và giới tính trong và ngoài nhà trường. Các chương trình, dự án nêu ra “đã xác lập các nguyên tắc chỉ đạo việc tổ chức thực hiện giáo dục, đặc biệt đã chú trọng xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phù hợp với từng đối tượng giáo dục cụ thể, cũng như cần phải quan tâm đến đội ngũ giáo viên và đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục…[14, 16].

Từ năm 1990 trở lại đây, công tác giáo dục giới tính được sự quan tâm của toàn xã hội và được nghiên cứu một cách nghiêm túc qua một số công trình sau:

  • Năm 1991, đề tài nghiên cứu: “Những yếu tố tâm lý trong sự chấp nhận giáo dục giới tính của thanh niên học sinh” của PGS. TS Bùi Ngọc Oánh.
  • Năm 1994, đề tài luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục : “Thực trạng nhận thức và thái độ của học sinh THPT đối với một số nội dung giáo dục giới tính” của Huỳnh Văn Sơn.
  • Năm 1994, đề tài luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục: “Tìm hiểu sự nhận thức và quan tâm của học sinh THPT về các vấn đề giới tính” của Nguyễn Văn Phương.
  • Năm 1998, đề tài luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục: “Khảo sát thực trạng nhận thức, thái độ của học sinh THPT về một số vấn đề cơ bản của nội dung giáo dục giới tính tại một số trường THPT thành phố Hồ Chí Minh” của Lê Khắc Mỹ Phượng.
  • Năm 1999, đề tài nghiên cứu: “Một số suy nghĩ về quan niệm tình dục của tuổi vị thành niên hiện nay đối với vấn đề tình dục” của Nguyễn Bích Điểm.
  • Năm 2007,đề tài luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục : “Thực trạng việc quản lý giáo dục giới tính cho học sinh ở các trường trung học cơ sở tại huyện Thuận An, Tỉnh Bình Dương và một số giải pháp” của Đỗ Hà Thế Bình.
  • Năm 2021, đề tài nghiên cứu của Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Đồng Nai: “Hệ thống giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục giới tính trong các trường THPT trên địa bàn Tỉnh Đồng Nai” do Hội Khoa học Tâm lý giáo dục chủ trì.

Điểm qua các đề tài nghiên cứu, có thể nhận thấy ở lứa tuổi THPT có khá nhiều đề tài được đề cập đến.Còn ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, chỉ có một đề tài, địa điểm nghiên cứu thuộc huyện Thuận An, Tỉnh Bình Dương, chưa có đề tài nghiên cứu công tác quản lý hoạt động giáo dục giới tính ở lứa tuổi này với địa điểm thuộc Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trên đây là đề tài Luận Văn Quản Lý Giáo Dục: Cơ sở lý luận về giáo dục giới tính. Để hoàn thiện bài Luận văn thạc sĩ ngành Quản Lý Giáo Dục về Cơ sở lý luận về giáo dục giới tính. được hoàn thiện hơn, thì các bạn tham khảo thêm nội dung dưới đây của bài viết bao gồm đề cương chi tiết của luận văn. Ngoài ra, các bạn đang gặp khó khăn trong việc lựa chọn đề tài, hoặc chưa làm được đề cương và bài luận văn thạc sĩ của mình. Thì có thể tham khảo bảng giá viết thuê luận văn thạc sĩ và quy trình làm luận văn thạc sĩ tại đây.

===>>> Dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ giá rẻ

3. Giáo dục giới tính cho học sinh trung học cơ sở trong tình hình hiện nay

Hiện nay, vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh trung học cơ sở vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất:

Một số ý kiến cho rằng nếu cung cấp cho học sinh những thông tin và giúp chúng phòng ngừa thai cũng như các bệnh lây qua đường tình dục sẽ đẩy các học sinh này vào họat động tình dục sớm và bừa bãi. Nhiều ý kiến khác không đồng ý việc đưa giáo dục giới tính vào học đường, nhất là các học sinh có độ tuổi từ 12 đến 16 tuổi. Quan điểm này cho rằng các em còn quá nhỏ, chưa đủ nhận thức để hiểu được vấn đề một cách thấu đáo, không tránh khỏi việc “ vẽ đường cho hươu chạy”.

Hiện nay, sự phát triển nhanh chóng các mặt của đời sống xã hội đã ảnh hưởng, làm thay đổi một số quan điểm truyền thống. Nếu như trước đây, học sinh lớp 6 được coi là “quá bé”, “ chưa biết gì” và chưa thể nhồi nhét những kiến thức về giới tính thì những năm trở lại đây, với sự phát triển một cách ồ ạt các hệ thống truyền tải thông tin như đài, báo, tivi, internet, phim ảnh, chế độ dinh dưỡng được cải thiện… đã làm ảnh hưởng đến những quan điểm cũng như sự trưởng thành sớm của các em học sinh. Vì vậy cần thiết phải đưa chương trình giáo dục giới tính vào trường học. Vấn đề là nên đưa vào từ lớp nào, gồm những nội dung gì ? Từ năm 2000, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp cùng Tổ chức Unicef sọan thảo chương trình thực nghiệm Giáo dục sống khỏe mạnh và kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở với 9 chủ đề :

Phòng tránh HIV/AIDS; Phòng tránh xâm hại tình dục trẻ em; Phòng tránh và ứng phó với tình huống căng thẳng; Giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên; Quyền trẻ em; Bệnh lây qua đường tình dục; Phòng tránh ma túy; Phòng tránh thuốc lá rượu bia và sống khỏe mạnh. Chương trình thực nghiệm này được giảng dạy thí điểm ở một số trường trung học cơ sở, thường sử dụng các tiết học ngọai khóa, ngòai giờ, hầu hết đều dạy lồng ghép vào các tiết dạy thuộc môn giáo dục công dân hoặc môn Sinh. Theo chương trình mới bắt đầu thực hiện từ năm học 2002-2003, các bài về giáo dục giới tính bắt đầu giảng dạy từ lớp 8 đến lớp 9.

Ngoài ra, để hỗ trợ thêm cho nhiều bạn học viên đang tìm kiếm tài liệu luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản Lý Giáo Dục, và những tài liệu liên quan đến luận văn thạc sĩ ngành Quản Lý Giáo Dục về quản lý giáo dục về giảng dạy, Luận văn Panda có chia sẻ nhiều tài liệu luận văn ngành Quản Lý Giáo Dục chọn lọc, nhằm hỗ trợ các bạn học viên đang làm luận văn được tốt hơn. Các bạn có thể tham khảo nhiều bài luận văn tại đây.

===>>>  KHO 99 + Luận văn quản lý giáo dục về giảng dạy

DOWNLOAD FILE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0932091562