Sau đây là nội dung về đề tài Tiểu Luận Giai Đoạn Khởi Tố Vụ Án Hình Sự được tham khảo bởi một bạn sinh viên đạt 9 điểm nếu các bạn đang tìm hiểu thêm về giai đoạn khởi tố thì đây là một bài thật sự có ích cho các bạn tham khảo muốn biết thêm tài liệu đầy đủ các bạn có thể nhắn qua zalo 0932.091.562
Đề Cương Tiểu Luận Giai Đoạn Khởi Tố Vụ Án Hình Sự
- MỞ ĐẦU : Gian Đoạn Khởi Tố Vụ Án Hình Sự
- Tính cấp thiết của đề tài
- NỘI DUNG..
1.1. Khái niệm..
1.1.1 Khái niệm giai đoạn tố tụng hình sự..
1.1.2 Khái niệm khởi tố vụ án hình sự..
1.2. Các giai đoạn của khởi tố vụ án hình sự.
1.2.1 Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự..
1.2.2 Giai đoạn điều tra.
1.2.3 Giai đoạn truy tố..
1.2.4 Giai đoạn xét xử..
- Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng giai đoạn khởi tố vụ án hình sự để xử lý tội phạm
2.1. Thực tiễn áp dụng.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế hiệu quả khởi tố vụ án hình sự..
- Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khởi tố vụ án hình sự
III. KẾT LUẬN..
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..
XEM THÊM : TOP 240 Đề Tài Quản Lý Hành Chính Nhà Nước – HOT
Lời mở đầu tiểu luận giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tố tụng hình sự là một quá trình giải quyết vụ án, trong đó có nhiều chủ thể, nhiều giai đoạn khác nhau phù hợp với tính chất, đặc điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng, là cơ chế mà qua đó tội phạm được điều tra làm rõ, bị truy tố, xét xử và hình phạt được áp dụng.
Theo quan điểm truyền thống ở nước ta khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên và là một trong những giai đoạn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tố tụng hình sự. Trong giai đoạn này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xác định sự việc có hay không có dấu hiệu của tội phạm để quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự nhằm khẳng định về mặt pháp lý có hay không có tội phạm xảy ra để làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Có thể nói khởi tố vụ án hình sự không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý là giai đoạn đầu và có tính định hướng cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo mà còn có ý nghĩa thiết thực trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Để đạt được điều đó khởi tố vụ án hình sự đòi hỏi phải có căn cứ, đúng thẩm quyền và đúng trình tự theo quy định của pháp luật.
Bộ Luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 quy định trình tự, thủ tục khởi tố vụ án hình sự khá đầy đủ và cụ thể, trở thành cơ sở pháp lý quan trọng, đã và đang phát huy vai trò tích cực trong thực tiễn. Tuy nhiên, sau một thời gian dài áp dụng trên địa bàn Gia Lai nói riêng và cả nước nói chung, các quy định về khởi tố vụ án hình sự cũng dần bộc lộ những vướng mắc, bất cập nhất định do còn nhiều điểm chưa hợp lý và thiếu đồng bộ, thống nhất; chưa dự liệu và điều chỉnh hết những trường hợp xảy ra trong thực tiễn tố tụng hình sự; chưa thực sự đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Những hạn chế này gây không ít khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc nhận thức và áp dụng quy định pháp luật, dẫn đến tình trạng khởi tố oan sai người vô tội hoặc bế tắc trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Do hạn chế về mặt lý luận nên các quy định pháp luật về khởi tố vụ án hình sự còn nhiều bất cập, từ đó thực tiễn khởi tố vụ án hình sự gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện các quy định khởi tố vụ án hình sự không chỉ có ý nghĩa lý luận, mà còn góp phần nâng cao công tác khởi tố vụ án trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Với những lý do trên học viên chọn chủ đề “Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự, qua thực tiễn tại địa bàn tỉnh Gia Lai” làm tiểu luận kết thúc học phần.

Nội dung tiểu luận giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
1.1.1 Khái niệm giai đoạn tố tụng hình sự
Giai đoạn tố tụng hình sự là các phần độc lập, liên quan, kế tiếp nhau liên tục, giai đoạn trước là điều kiện, là cơ sở pháp lý làm phát sinh giai đoạn sau, giai đoạn sau thay thế và kiểm tra kết quả của giai đoạn trước, tạo thành một quá trình tố tụng hoàn chỉnh, liên tục; có nhiệm vụ tố tụng cụ thể; có cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng tương ứng; có trình tự, thủ tục thực hiện các hành vi tố tụng riêng; các quan hệ tố tụng riêng và những quyết định tố tụng riêng đảm bảo giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn, khách quan, toàn diện và kịp thời.
1.1.2 Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, trong đó cơ quan hoặc người có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự xác định có hay không dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ khi tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc phát hiện tội phạm và kết thúc khi quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự được ban hành.
– Căn cứ khởi tố vụ án hình sự: Theo quy định tại Điều 143 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015, chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ: Tố giác của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người phạm tội tự thú.
1.2. Các giai đoạn của khởi tố vụ án hình sự
1.2.1 Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tiến hành xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó.
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trước khi khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong toàn xã hội.
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó cơ quan Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.
Quyết định việc truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách qua các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến và trên cơ sở đó Viện kiểm sát ra quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng) hay Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành: 1) áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử, 2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm – nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm – nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.
Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước Tòa án kèm theo bản cáo trạng) do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc bằng một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng giai đoạn khởi tố vụ án hình sự để xử lý tội phạm
Trong những năm vừa qua, cả nước nói chung và Gia Lai nói riêng đã có nhiều thay đổi trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật lại diễn biến phức tạp với tính chất nguy hiểm ngày càng tăng cao, đối tượng phạm tội ngày càng đa dạng… xảy ra với nhiều hình thức, thủ đoạn phạm tội tinh vi, xảo quyệt. Việc đánh giá đầy đủ, đúng đắn thực tiễn khởi tố vụ án hình sự là một vấn đề quan trọng để xác định những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Trong những năm qua, hoạt động khởi tố vụ án hình sự đã được các cơ quan có thẩm quyền trên địa bàn thực hiện như sau:
– Trong hoạt động khởi tố vụ án của các cơ quan có thẩm quyền
Trong số các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra là cơ quan chủ yếu thực hiện hoạt động khởi tố vụ án hình sự, trong khi Viện kiểm sát, Tòa án (Hội đồng xét xử) và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ án hình sự với số lượng án không đáng kể. Năm 2019 là năm Viện kiểm sát khởi tố nhiều nhất cũng chỉ là 02 vụ. Các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện hoạt động tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm; giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố rất kịp thời, nhanh chóng và đạt tỷ lệ giải quyết rất cao với 97%. Đối với các tin báo không giải quyết ngay lập tức mà đòi hỏi phải chờ xác minh giải quyết là do địa bàn xảy ra sự việc là vùng đồi núi hiểm trở, người thực hiện hành vi ở nước ngoài, hành vi liên quan đến tội phạm về tham nhũng…
– Trong hoạt động ra các quyết định tố tụng
Các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự về cơ bản đã thực hiện tốt trách nhiệm bảo đảm tính có căn cứ khi ra Quyết định khởi tố vụ án. Số án được Cơ quan điều tra khởi tố sau đó bị Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ khoảng 3%.
– Trong hoạt động kiểm sát khởi tố vụ án hình sự
Trong những năm qua, thông qua việc kiểm sát phân loại xử lý các tin báo, tố giác tội phạm của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát vẫn còn phát hiện vụ việc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm nên Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc trong một số trường hợp, Viện kiểm sát đã trực tiếp khởi tố. Viện kiểm sát trực tiếp khởi tố vụ án là những trường hợp khi Cơ quan điều tra đã giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, tuy nhiên Viện kiểm sát qua công tác kiểm sát trực tiếp tổng thể cũng như kiểm sát việc giải quyết đối với từng vụ việc đã kịp thời phát hiện thiếu sót của Cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết, từ đó Viện kiểm sát đã có quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, đồng thời trực tiếp ra quyết định khởi tố vụ án, yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra theo quy định. Các vụ án do Viện kiểm sát yêu cầu khởi tố hoặc trực tiếp khởi tố đều đảm bảo có căn cứ và đúng pháp luật, chất lượng giải quyết cao. Kết quả công tác trên cho thấy, Viện kiểm sát đã bám sát quá trình tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm của các Cơ quan điều tra để nắm rõ được tình hình thực tế về vụ việc, hạn chế được nhiều tình trạng khởi tố oan sai, cũng như bỏ lọt tội phạm.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế hiệu quả khởi tố vụ án hình sự
– Một số hạn chế còn tồn tại trong hoạt động khởi tố vụ án hình sự
Thứ nhất, số vụ án bị cơ quan điều tra khởi tố nhưng sau đó cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra hoặc bị Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án vẫn còn. Một số trường hợp khởi tố sai mà đáng lẽ cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, với các nguyên nhân sau: Khởi tố khi không có sự việc phạm tội xảy ra; khởi tố khi hành vi không cấu thành tội phạm; khởi tố khi người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; khởi tố khi đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Qua những bất cập trên phản ánh rất nhiều vấn đề chủ và khách quan của các chủ thể có thẩm quyền khởi tố.
Thứ hai, vẫn tồn tại hiện tượng hình sự hóa các quan hệ dân sự, nói cách khác là khởi tố vụ án khi không có dấu hiệu của tội phạm mà chỉ là các vi phạm pháp luật khác. Trong một số trường hợp Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã không đánh giá đúng bản chất của các mối quan hệ dân sự như vay mượn, chơi hụi mà chỉ dựa trên việc không thực hiện các cam kết trong việc vay mượn, trao trả tài sản đến hạn, không xem xét đến các yếu tố thuộc mặt chủ quan của bên có nghĩa vụ trả nợ, không làm rõ có hay không có ý thức chiếm đoạt, việc họ chưa hay không thực hiện các cam kết theo hợp đồng là do nguyên nhân nào, do quản lý, sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến không có khả năng thu hồi vốn để trả nợ hay lý do bất khả kháng…
Thứ ba, vẫn còn xảy ra tình trạng bỏ lọt tội phạm khi nhiều vụ, việc có dấu hiệu tội phạm nhưng Cơ quan điều tra lại ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thông qua hoạt động kiểm sát khởi tố, Viện kiểm sát đã phát hiện và yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc Viện kiểm sát tự mình khởi tố.
Thứ tư, vẫn còn trường hợp các cơ quan có thẩm quyền vi phạm thời hạn giải quyết tố giác, tin báo và kiến nghị khởi tố khi khoảng thời gian từ ngày tiếp nhận thông tin về tội phạm đến ngày ra quyết định khởi tố án xa thời hạn luật định.
Thứ năm, theo quy định hiện hành thì Viện kiểm sát chỉ tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và chuyển ngay cho Cơ quan điều tra mà không có thẩm quyền trực tiếp điều tra, xác minh trong các trường hợp cần thiết cũng dẫn đến những hạn chế nhất định trong công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. Bởi lẽ có những trường hợp vì nguyên nhân nào đó Cơ quan điều tra không tiến hành việc điều tra xác minh hoặc tuy có thực hiện nhưng không đảm bảo khách quan, không tích cực dẫn đến kết quả giải quyết vụ việc không chính xác.
– Những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả khởi tố vụ án hình sự
Thứ nhất, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền chưa được thống nhất, đồng bộ trong hoạt động khởi tố vụ án hình sự. Công tác phối hợp liên ngành giữa các cơ quan tư pháp hình sự, đặc biệt là giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra trong việc giải quyết các vụ án hình sự chưa chặt chẽ, chất lượng chưa cao. Tuy pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã quy định Cơ quan điều tra phải thực hiện các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát nhưng chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của Cơ quan điều tra từ đó có quan điểm cho rằng đây thực ra chỉ là sự ràng buộc về thủ tục pháp lý, còn nội dung tiến hành các hoạt động điều tra như thế nào, thu thập chứng cứ gì chủ yếu do Điều tra viên dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra quyết định cho nên việc quy định chế độ trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra như hiện nay làm cho Viện kiểm sát không thực quyền. Trên thực tế, nhiều nơi vẫn còn tình trạng Viện kiểm sát thụ động chờ đợi kết quả điều tra và quan điểm đường lối giải quyết vụ án của Cơ quan điều tra hay nói cách khác, hoạt động của Viện kiểm sát còn dựa trên hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra. Trong hoạt động khởi tố, việc né tránh, ngại va chạm giữa cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cũng là một trong những nguyên nhân hạn chế chất lượng công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, công tác quản lý; chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp vẫn còn nhiều hạn chế. Do không đánh giá hết được vai trò quan trọng của công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm nên dẫn đến nhiều vụ án bị oan sai ngay từ đầu hoặc bỏ lọt tội phạm gây nhiều bức xúc trong dư luận. Đồng thời, công tác chỉ đạo nghiệp vụ trong ngành đối với hoạt động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm đôi khi còn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thứ ba, hạn chế về trình độ, năng lực của một số Điều tra viên, Kiểm sát viên trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Hiện nay vẫn còn một số Điều tra viên, Kiểm sát viên vừa yếu về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ vừa yếu về kiến thức pháp luật khi chưa hiểu rõ quy định của luật hình sự cũng như luật tố tụng hình sự, không cập nhật các văn bản pháp luật đặc biệt là các thông tư liên tịch hướng dẫn xử lý các tội phạm cụ thể.
Bên cạnh đó, một số người có thẩm quyền trong việc khởi tố vụ án hình sự có sự suy thoái về đạo đức nghề nghiệp. Một số Kiểm sát viên và Điều tra viên không có bản lĩnh vững vàng, kiên quyết đấu tranh chống tội phạm đã bị kẻ xấu lợi dụng mua chuộc để che giấu tội phạm bằng việc không khởi tố để xử lý trước pháp luật, việc làm đó đã ảnh hưởng tới hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm và uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
3. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khởi tố vụ án hình sự
– Giải pháp về pháp luật:
Trong những năm vừa qua, quy định pháp luật về khởi tố vụ án hình sự trong BLTTHS năm 2015 đã đáp ứng phần nào yêu cầu về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Những thành công của việc thực hiện Bộ luật này đã khẳng định và nêu cao trách nhiệm của Nhà nước với công dân, đảm bảo các quyền tự do dân chủ của nhân dân; xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan tố tụng, đảm bảo xử lý nhanh gọn, kịp thời hành vi phạm tội nhưng vẫn đảm bảo tính có căn cứ và đúng pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó BLTTHS năm 2015 vẫn tồn tại một số vướng mắc, bất cập. Những điểm cần được xem xét, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn và đáp ứng được việc tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác khởi tố vụ án hình sự bao gồm:
+ Trong quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Thứ nhất, cần sửa đổi quy định tại khoản 4 Điều 153 BLTTHS năm 2015 theo hướng bãi bỏ quy định cho phép Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm. Quy định về việc Hội đồng xét xử có thẩm quyền khởi tố vụ án trong BLTTHS năm 2015 không phù hợp với Hiến pháp và Luật tổ chức Toà án nhân dân về chức năng của Tòa án, không đảm bảo tính độc lập, khách quan của Tòa án trong việc giải quyết vụ án cũng như phù hợp với thực tiễn khi Hội đồng xét xử hầu như không ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trên thực tế.
Thứ hai, BLTTHS năm 2015 phải bổ sung quy định về việc xác định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra theo cấp (cấp huyện, cấp tỉnh), theo hệ thống (cơ quan điều tra trong công an nhân dân, quân đội nhân dân, viện kiểm sát) và theo lãnh thổ. Khi bổ sung quy định này, BLTTHS cần xây dựng các tiêu chí để xác định thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự theo quy trình xuôi, tức là xây dựng tiêu chí để xác định thẩm quyền khởi tố vụ án trước, trên cơ sở đó xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử.
Thứ ba, sửa đổi khoản 1 Điều 153 BLTTHS năm 2015 theo hướng cho phép Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Việc sửa đổi như trên sẽ khắc phục được bất cập trong quy định tại khoản 1 Điều 153 BLTTHS hiện nay: Nếu vụ việc đang được cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát thụ lý, giải quyết nhưng sau đó các cơ quan này xác định vụ việc không thuộc thẩm quyền khởi tố của họ mà thuộc thẩm quyền khởi tố của Cơ quan điều tra thì Cơ quan điều tra lại không có quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
+ Trong quy định đối với những người tố giác, tố cáo đúng sự thật
Bổ sung quy định mang tính khuyến khích những người tố giác, tố cáo đúng sự thật thì phải được khen thưởng nhằm khuyến khích tinh thần tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm của họ. Quy định này sẽ tạo ra sự tương xứng trong các quy định của các ngành luật khác như luật phòng chống tham nhũng, luật khiếu nại tố cáo… Trong các ngành luật này, người tố cáo được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
– Các giải pháp khác
Bên cạnh đó cần tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong chỉ đạo, giám sát hoạt động khởi tố vụ án. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát không chỉ đối với các quyết định khởi tố, quyết định không khởi tố vụ án hình sự (vẫn thường làm từ trước đến nay), mà toàn bộ hoạt động khởi tố, bao gồm cả tiếp nhận tin báo, tố giác; hoạt động kiểm tra, xác minh của cơ quan có thẩm quyền.
Đồng thời, thường xuyên thanh tra, kiểm tra nội bộ, đặc biệt là hoạt động thanh tra các hành vi, quyết định tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự… có thể bị phát hiện song hành cùng với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát. Các quyết định xử lý vi phạm hành chính của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có thể là đối tượng bị thanh tra, qua việc kiểm tra tính có căn cứ của các quyết định xử phạt vi phạm hành chính, cơ quan này có thể tìm được những trường hợp bỏ lọt tội phạm mà đáng lẽ phải khởi tố vụ án, đáng lẽ phải xử lý hình sự đã bị chuyển sang xử lý hành chính.
Nâng cao trình độ nhận thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ, rèn luyện phẩm chất đạo đức, bảo đảm chế độ đãi ngộ cho các Kiểm sát viên, Điều tra viên. Trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay, việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là yêu cầu được đặt ra hết sức cấp bách. Bản thân người làm công tác điều tra, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể khác thì đương nhiên phải là những người nắm vững pháp luật, bên cạnh đó cần có linh hoạt, sáng tạo trong quá trình giải quyết nhiệm vụ được giao.
XEM THÊM : Tổng Hợp 100 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Kiến Trúc
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của quá trình tố tụng, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện các hoạt động tố tụng trong các giai đoạn tiếp theo nhằm giải quyết vụ án hình sự. Chính vì vậy, đây được xem là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng làm tiền đề, cơ sở để các cơ quan tố tụng xác định đúng hành vi, tính chất sự việc để quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án. Trên cơ sở đó, học viên đã nghiên cứu và đưa ra những lý luận chung về khởi tố vụ án hình sự, các giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; thực trạng và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Gia Lai; thấy được những hạn chế, bất cập, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Từ đó đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động khởi tố vụ án hình sự, đảm bảo phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
XEM THÊM : DỊCH VỤ VIẾT THUÊ LUẬN VĂN
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
- Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp Việt Nam năm 1992.
- Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
- Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Luật tố tụng hình sự 2015.
- Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014.
- Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018.
- Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Tố cáo năm 2018.
- Lê Cảm (2004), “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát (02).