Sau đây là nội dung đề tài Tiểu Luận Lý Luận Và Quy Định Của Pháp Luật được tham khảo của một bạn sinh viên đạt 9 điểm nếu các bạn đang tìm hiểu thêm về lý luận và quy định của pháp luật thì đây sẽ là một bài mẫu rất có ích cho các bạn tham khảo để biết thêm chi tiết đầy đủ các bạn có thể nhắn qua zalo 0932.091.562
Đề Cương Tiểu Luận Lý Luận Và Quy Định Của Pháp Luật
- MỞ ĐẦU
- NỘI DUNG
- Lý luận chung về tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
- Quy định của pháp luật hình sự về các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
- Thực tiễn áp dụng pháp luật và một số kiến nghị
3.1. Thực tiễn áp dụng và hạn chế của luật hình sự
3.2. Nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập
3.3. Một số kiến nghị
III. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Lời Mở Đầu Lý Luận Và Quy Định Của Pháp Luật
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội. Trong đó, luật hình sự là một ngành luật đặc biệt của hệ thống pháp luật nước ta, nó xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và quy định hình thức xử lý hình sự; cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự, cũng như hình phạt, biện pháp tư pháp và các chế định pháp lý hình sự khác…. Trong luật hình sự, bản chất của tội phạm được phản ánh qua bốn yếu tố cấu thành tội phạm, bốn yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và được xem là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người phạm tội. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành vi phạm tội nào, dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng thì giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định. Chính vì vậy, trong thực tiễn do những lý do chủ quan hoặc khách quan khác nhau mà việc xác định chính xác các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm chưa rõ ràng cụ thể, thiếu thống nhất dẫn đến tình trạng người tiến hành tố tụng hiểu sai, áp dụng sai trong định tội danh và quyết định hình phạt. Từ đó, làm cho hiệu quả, chất lượng giải quyết vụ án hình sự hạn chế, tình trạng xét xử oan, sai đối với người thực hiện hành vi hay bỏ lọt tội phạm vẫn tiếp diễn; nhiều vụ án hình sự không được giải quyết theo trình tự luật định, tình trạng tồn đọng án đang có dấu hiệu gia tăng, v.v… Chính vì vậy việc nghiên cứu “Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự về các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm” là cần thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.

XEM THÊM : Cơ Sở Lý Luận Nhà Nước
II. Nội Dung Lý Luận Và Quy Định Của Pháp Luật
1. Lý luận chung về tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
– Khái niệm tội phạm
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tội phạm được quy định như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
– Các yếu tố và dấu hiệu để cấu thành tội phạm hình sự
Các yếu tố và dấu hiệu để cấu thành tội phạm hình sự bao gồm:
Nhóm dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm: Các dấu hiệu này được quy định rõ ràng trong luật hình sự và bắt buộc phải có đối với mọi tội phạm, cụ thể bao gồm: mặt khách thể của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm và mặt chủ thể của tội phạm.
Nhóm các dấu hiệu không bắt buộc của cấu thành tội phạm. Các dấu hiệu này chỉ có ở những tội phạm cụ thể đã được quy định rõ ràng trong luật hình sự chứ không bắt buộc phải có ở mọi tội phạm. Các dấu hiệu đó bao gồm: hậu quả của hành vi phạm tội; động cơ và mục đích phạm tội; dấu hiệu đặc biệt của chủ thể đặc biệt.
2. Quy định của pháp luật hình sự về các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm
Các dấu hiệu này được quy định rõ ràng trong luật hình sự và bắt buộc phải có đối với mọi tội phạm, cụ thể bao gồm: mặt khách thể của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm và mặt chủ thể của tội phạm.
– Mặt khách thể của tội phạm là những mối quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mà bị tội phạm xâm hại, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Chẳng hạn như phạm tội gây thương tích cho người khác tức là đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ sức khỏe của nạn nhân. Khách thể tội phạm có 3 loại: khách thể chung của tội phạm, khách thể loại của tội phạm và khách thể trực tiếp của tội phạm.
– Yếu tố chủ thể của tội phạm là người gây ra những hành vi phạm tội có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi quy định theo quy định của Pháp luật để chịu trách nhiệm về hành vi mà mình đã gây ra. Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ có người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Theo Luật hình sự Việt Nam, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 Bộ luật hình sự 2015) và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 Bộ luật hình sự 2015).
Có thể thấy, pháp luật hình sự không quy định cụ thể thế nào là có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và quy định trường hợp trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo đó, Điều 12 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật hình sự có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật hình sự.
Cũng tại Điều 21 Bộ luật hình sự quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy có thể thấy, luật hình sự Việt Nam mặc định thừa nhận những người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nói chung và không thuộc các trường hợp tại Điều 21 Bộ Luật hình sự 2015 là có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo đó, các trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự đã được quy định khá cụ thể tại Điều 21 Bộ luật hình sự 2015. Có hai dấu hiệu chính để xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: Dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý.
+ Về dấu hiệu y học: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.
+ Về dấu hiệu tâm lý: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã mất năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện, là người không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Theo đó, họ không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Ngoài ra, nếu người đó có năng lực nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng do các xung đột bệnh lý không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó thì vẫn được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Bên cạnh tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, luật hình sự còn thừa nhận trường hợp hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự. Đây là trường hợp do mắc bệnh nên năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi bị hạn chế. Người bị hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự có ảnh hưởng nhất định đến mức độ lỗi. Lỗi của họ cũng là lỗi hạn chế. Do đó, luật hình sự Việt Nam coi tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế là tình tiết giảm nhẹ.
Trong số các dấu hiệu của mặt khách quan, dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc phải có ở mọi tội phạm. Nếu không có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không có tội phạm, vì vậy Điều 8 Bộ luật Hình sự quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ có hành vi nguy hiểm cho xã hội mới gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là cách xử sự nguy hiểm của chủ thể, xâm phạm các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Hành vi ấy bị Luật Hình sự cấm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bằng phương pháp hành động hoặc không hành động.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có đặc điểm chung giống nhau là tính chất nguy hiểm, tính chất do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện xâm phạm đến quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Tội phạm trong Bộ luật Hình sự rất đa dạng nên hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đa dạng. Có hành vi nguy hiểm mang tính chất đơn lẻ, để thực hiện tội phạm người phạm tội chỉ cần thực hiện một hành vi do pháp luật quy định. Có hành vi nguy hiểm cho xã hội mang tính chất tội ghép, để thực hiện tội phạm người phạm tội phải thực hiện nhiều hành vi, nói cách khác tội ghép là tội được thực hiện bằng nhiều hành vi như tội cướp tài sản. Người phạm tội cướp tài sản thực hiện một lúc hai hành vi dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng vũ lực, hoặc dùng thủ đoạn khác và hành vi thứ hai là chiếm đoạt tài sản. Có hành vi nguy hiểm mang tính chất liên tục được gọi là tội liên tục. Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hàng loạt hành vi phạm tội cùng loại, mỗi hành vi phạm tội có tính chất nhỏ lẻ, nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, tuy nhiên khi gộp lại toàn bộ các hành vi, thì tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội đáng kể. Trong thực tế, đấu tranh chống tội phạm cũng như quy định của Bộ luật Hình sự còn có hành vi kéo dài gọi là tội kéo dài như tội trốn khỏi nơi giam giữ, tội tàng trữ vũ khí trái phép, tàng trữ các chất ma túy. Tội phạm chỉ chấm dứt khi bị phát hiện hoặc người phạm tội tự thú.
Hậu quả tác hại có ý nghĩa quan trọng để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Hậu quả tác hại càng lớn thì mức độ nguy hiểm của tội phạm càng cao. Hậu quả tác hại của tội phạm có ý nghĩa xác định giai đoạn hoàn thành của tội phạm. Tội có cấu thành vật chất được coi là hoàn thành khi hành vi nguy hiểm đã gây ra hậu quả tác hại. Tội có cấu thành hình thức được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội theo quy định của điều luật cụ thể trong Bộ luật Hình sự.
Dấu hiệu thời gian, địa điểm trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm chỉ ra rằng tội phạm có thật ở thời gian, địa điểm nhất định. Đây là một trong những vấn đề buộc phải chứng minh trong vụ án hình sự. Phần lớn các tội phạm trong Bộ luật Hình sự không quy định thời gian, địa điểm, nên dù tội phạm xảy ra trong thời gian nào hoặc địa điểm bất kỳ nào đều không ảnh hưởng đến việc định tội. Trừ những tội phạm cụ thể của Bộ Luật Hình sự có quy định thời gian, địa điểm, thì thời gian, địa điểm là dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc phải có để định tội ví dụ như tội buôn lậu phải có địa điểm là qua biên giới, tội làm chết người trong khi thi hành công vụ phải có thời gian là đang thi hành công vụ v.v…

XEM THÊM : Lý Luận Và Quy Định Của Pháp Luật
3. Thực tiễn áp dụng pháp luật và một số kiến nghị
3.1. Thực tiễn áp dụng và hạn chế của luật hình sự
Hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả khi áp dụng pháp luật khi xác định các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm. Tu nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế:
3.2. Nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập
3.3. Một số kiến nghị
– Hoàn thiện khái niệm tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015. Khoản 1 Điều 8 quy định: “….hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, …., xâm phạm quyền con người, ….”. Có thể thấy, về cơ bản, nội dung điều luật này được giữ nguyên so với nội dung ở khoản 1 Điều 8 BLHS 1999, sửa đổi, bổ sung 2009, chỉ thêm vào cụm từ “hoặc pháp nhân thương mại” và “xâm phạm quyền con người” và không có điều chỉnh gì thêm. Quy định như vậy sẽ làm cho điều luật trở nên không chính xác. Bởi vì, trong khái niệm này xác định chủ thể của tội phạm là cá nhân và pháp nhân thương mại nhưng chỉ xác định điều kiện chủ thể của cá nhân (người có năng lực TNHS”, có lỗi) mà không xác định năng lực chủ thể của pháp nhân thương mại đó (chỉ yêu cầu có lỗi). Bên cạnh đó, pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Tuy nhiên, theo Điều 74 thì pháp nhân thương mại chỉ phải chịu TNHS trong một số nhóm tội, chủ yếu là các tội về kinh tế và môi trường, chứ không phải tất cả tội phạm được quy định trong BLHS.
XEM THÊM : DỊCH VỤ VIẾT THUÊ LUẬN VĂN
III. KẾT LUẬN
Nhà nước sẽ không tồn tại nếu không có pháp luật, pháp luật chính là công cụ, phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội và duy trì chế độ chính trị. Nếu không có sự can thiệt của pháp luật thì xã hội sẽ không ổn định. Trong tình hình hiện nay, tội phạm đang ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tính đa dạng và phức tạp, điều này đã gây nên sự hoang mang lo ngại cho toàn xã hội. Vì vậy, công tác xác định một hành vi nào đó có phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự hay không là vấn đề được các nhà áp dụng pháp luật nói riêng và mọi người trong xã hội nói chung đặc biệt quan tâm.
Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với vai trò là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự và là cơ sở để định tội, bởi một hành vi chỉ chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt tương ứng khi hành vi đó hội đủ tất cả các dấu hiệu bắc buộc của cấu thành tội phạm đó. Và ngược lại, một hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng không thoả mãn một trong số các dấu hiệu của cấu thành tội phạm sẽ được xem là không có tội phạm xảy ra và trách nhiệm hình sự không được đặt ra. Điều này phù hợp với nguyên tắc “không có luật, không có tội” theo Điều 2 của Bộ luật hình sự “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”
Như vậy, qua nghiên cứu đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm; thực tiễn thực hiện và những hạn chế của Luật trong việc quy định về các dấu hiệu của tội phạm, các yếu tố cấu thành tội phạm; từ đó đưa ra nguyên nhân và đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự.